Nhà đầu tư nên ứng xử ra sao với trái phiếu doanh nghiệp hiện nay?

13 October 2022 - 02:02 PM Alternate Text

 

Sau những diễn biến gần đây trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp và đặc biệt là sau sự kiện Ngân hàng SCB và những biện pháp can thiệp của Ngân hàng Nhà nước để đảm bảo quyền lợi của người gửi tiền thì nhiều người đã hiểu ra rằng Trái phiếu Doanh nghiệp không thể an toàn cao như tiền gửi tiết kiệm ngân hàng.  

Ông Nguyễn Quang Thuân, Tổng Giám đốc FiinRatings đã có những chia sẻ và gợi ý về giải pháp cho các nhà đầu tư Trái phiếu Doanh nghiệp. 

Rủi ro Trái phiếu Doanh nghiệp hiện nay là có nhưng hoàn toàn có thể kiểm soát được

Hiện nhà đầu tư trái phiếu muốn đáo hạn sớm và nhiều doanh nghiệp cũng chủ động “trả lại” tiền cho nhà đầu tư. Hoạt động phát hành mới giảm sút trong 9 tháng đầu năm 2022 đã làm cho số dư trái phiếu doanh nghiệp đang lưu hành đã giảm đi đáng kể và tức là rủi ro đến với hệ thống tài chính cũng cơ bản được kiểm soát mặc dù việc đáo hạn sớm đã tạo ra những xáo trộn trên thị trường trái phiếu, cũng như thị trường cổ phiếu.  

Số dư TPDN vào 30/9/2022 chỉ còn ở mức hơn 1,3 triệu tỷ VND (cuối năm 2021 là hơn 1,5 triệu tỷ VND - chiếm 15% GDP), trong đó trừ đi số trái phiếu do ngân hàng phát hành hơn 400 nghìn tỷ thì trái phiếu doanh nghiệp phi ngân hàng giảm chỉ còn hơn 920 nghìn tỷ VND. Trái phiếu ngân hàng thì mặc dù có vấn đề SCB nhưng về cơ bản là rủi ro rất thấp. Còn lại với khối doanh nghiệp thì trong số 920 nghìn tỷ này thì dự nợ trái phiếu BĐS hiện có số lưu hành là 455 nghìn tỷ, con số này là lớn nhưng cũng chỉ chiếm 4% tổng dư nợ tín dụng toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam.  

Con số 455 nghìn tỷ VND thực ra có sự phân hoá về chất lượng tín dụng từ cao cho đến thấp và không phải doanh nghiệp nào cũng có rủi ro cao trong việc sẽ không thực hiện tốt nghĩa vụ nợ. 

Nhìn sang Trung Quốc, dư nợ trái phiếu doanh nghiệp 8 nghìn tỷ USD, chiếm tận 44% GDP vào cuối 2021 và họ vẫn xử lý được sau thời gian bất ổn 2 năm qua.  

Khó khăn tài chính của một số doanh nghiệp là có và có thể ảnh hưởng đến việc thực hiện nghĩa vụ nợ trái phiếu cho nhà đầu tư 

Cũng như tín dụng ngân hàng, việc một số doanh nghiệp chậm trả lãi và/hoặc gốc trái phiếu là điều khó tránh khỏi. Điều này một phần do chất lượng tín dụng của các tổ chức phát hành trong những năm vừa qua là các doanh nghiệp chưa niêm yết, công ty "một dự án", có đòn bảy tài chính cao, hồ sơ tín dụng chưa mạnh và gặp nhiều khó khăn về kiểm soát tăng trưởng tín dụng, mặt bằng lãi suất tăng cao; và một số khó khăn mang tính đặc thù của ngành như thủ tục cấp phép các dự án bất động sản gần như đóng băng. Hoặc có thể chẳng may đã trót đầu tư vào các doanh nghiệp mà có sai phạm và bị cơ quan quản lý xử lý như một số trường hợp vừa qua. 

Nếu xảy ra vỡ nợ trái phiếu thì nhà đầu tư đang sở hữu trái phiếu nên làm gì? Cắt lỗ trái phiếu hay “Hàng đổi hàng”? 

Điều đầu tiên có lẽ là cần xem lại hợp đồng mua trái phiếu xem có điều khoản xem có được phép bán lại cho tổ chức phát hành hoặc cho đơn vị trung gian phân phối là công ty chứng khoán hay không. 

Tuy nhiên, việc muốn tất toán hoặc đáo hạn sớm có thể không khả thi tùy theo tình hình tài chính và khả năng của từng doanh nghiệp. Công ty Chứng khoán thì không phải lúc nào cũng muốn và có thể giúp khách hàng mua lại bởi nguồn lực vốn của Công ty Chứng khoán có hạn trong khi hầu hết hợp đồng phổ biến hiện nay là họ không có trách nhiệm mua lại. Họ thường chỉ có thể mua lại khi họ có khách hàng khác sẵn sàng tiếp quản hoặc mua lại lô trái phiếu đó.  

Hơn nữa, vốn điều lệ công ty chứng khoán có thể lớn, hàng chục nghìn tỷ VND nhưng thanh khoản hay nói cách khác là số dư tiền mặt không phải lúc nào cũng có thể đủ để mua lại của nhà đầu tư, nhất là trong bối cảnh thắt chặt tín dụng và sự sụt giảm của thị trường chứng khoán hiện nay. Vốn tự có của Công ty Chứng khoán hiện nay chủ yếu để phục vụ hoạt động cho vay margin cổ phiếu và đầu tư/ tự doanh của chính họ. 

Do đó, phương thức này có thể không khả thi kể cả nhà đầu tư muốn lấy lại không phải toàn bộ gốc và lãi trái phiếu, nhất là trong bối cảnh hiện nay. Tài sản đảm bảo cũng là một "cứu cánh", nhưng thực tế khi đã xảy ra tình huống vỡ nợ thì tài sản đảm bảo không còn nhiều giá trị, đặc biệt với nhà đầu tư cá nhân hoặc tổ chức phi ngân hàng.  

Cách mà ở thị trường Trung Quốc đã áp dụng khá nhiều đó là “hàng đổi hàng” - trái chủ yêu cầu doanh nghiệp thực hiện thanh toán trái phiếu bằng sản phẩm hoặc dich vụ của họ. Ở Việt Nam, đã có một số doanh nghiệp bất động sản thực hiện theo cách này. Theo đó, thay vì mua lại trái phiếu đã phát hành, doanh nghiệp cho phép trái chủ chuyển đổi trái phiếu sang sản phẩm bất động sản, bao gồm căn hộ, đất phân lô, thậm chí biệt thự. Nếu giá trị lô đất cao hơn số dư đầu tư trái phiếu, nhà đầu tư có thể tìm một nhóm trái chủ để gom lại và có thể chuyển đổi sang việc cùng chung sở hữu lô đất đó. Tuy nhiên, yếu tố pháp lý dự án hoặc bất động sản đó có thể là một yếu tố rủi ro mới mà nhà đầu tư nên đánh giá kỹ tình trạng pháp lý để có thể có một sự chuyển đổi an toàn thay vì chuyển sang một tài sản khác rủi ro hơn.  

Thu xếp giãn nợ trái phiếu – Giải pháp khả thi dành cho trái chủ 

Đây là giải pháp rất phổ biến ở thị trường trái phiếu Trung Quốc. Thay vì ép các Doanh nghiệp phát hành hoặc Công ty Chứng khoán mua lại thì các nhà đầu tư trái phiếu yêu cầu các đại diện chủ nợ hoặc đơn vị phân phối đàm phán với doanh nghiệp và thực hiện giãn kỳ hạn trả nợ, kết hợp với việc thanh toán một phần hoặc kéo dài kỳ hạn của trái phiếu đó. 

Điều này sẽ giúp giải quyết được khó khăn cho chính Doanh nghiệp phát hành, nhà đầu tư không phải cắt lỗ và có cơ hội thu hồi khoản đầu tư đó trong tương lai. Dĩ nhiên, tùy theo mức độ rủi ro và triển vọng của dự án mà nhà đầu tư có thể đàm phán giữ nguyên lãi suất hoặc tăng lãi suất trái phiếu tuỳ theo mức độ rủi ro được đánh giá hoặc thoả thuận lại.  

Nhìn sang ngành tín dụng ngân hàng thì điều này cũng tương tự như việc tái cơ cấu nợ được thực hiện nhiều năm qua bởi các ngân hàng thương mại ở Việt Nam cho các khách hàng của họ. Do đó, phương án này đòi hỏi các định chế tài chính liên quan bao gồm đơn vị tư vấn, phân phối và đặc biệt là đơn vị đại diện sở hữu trái phiếu hoặc quản lý tài sản thế chấp cần phải có trách nhiệm và chủ động vào cuộc. Hiện Nghị định 65 mới đi vào hiệu lực cũng quy định rõ ràng là cho phép hoạt động huy động trái phiếu nhằm tái cấp vốn với điều kiện Thông tin và Phương án mục đích sử dụng vốn cần minh bạch và rõ ràng. 

Quay lại ở Trung Quốc, tỷ lệ vỡ nợ trái phiếu là 1,35% (tín theo giá trị trong tổng số 8 nghìn tỷ USD – chiếm tới 44% GDP của nước này trong khi đó ở Việt Nam chỉ ở mức 14% GDP) vào cuối năm 2021. Kể từ năm 2018 đến giữa năm 2022, Trái phiếu Doanh nghiệp quốc tế của Trung Quốc (sở hữu bởi NĐTNN) ghi nhận hơn 142 lô trái phiếu doanh nghiệp được phát hành bởi khoảng 36 nhà phát triển bất động sản của Trung Quốc đã bị vỡ nợ. Với phương thức chuyển đổi và đàm phán giãn nợ như trên thì 46 trái phiếu trong tổng số 142 lô trái phiếu quốc tế vỡ nợ đã được giải quyết êm thấm. Trên thị trường trái phiếu nội địa của Trung Quốc thì 45 trên 97 lô trái phiếu vỡ nợ của các nhà phát triển BĐS cũng được xử lý cơ bản là hài hoà. 

Dĩ nhiên, kết quả trên cũng có sự tham gia của cơ quan quản lý nhà nước qua các hình thức khác nhau bao gồm: chỉ đạo các Ngân hàng Thương mại nới room BĐS một cách chọn lọc sau khi đã rà soát, giảm lãi suất mua nhà nếu chứng minh là không đầu cơ (tính theo số con trong gia đình), chỉ đạo các định chế hoặc DNNN bơm tiền mua lại dự án của một số chủ đầu tư BĐS rơi vào tình trạng vỡ nợ, tạo quỹ giải cứu bất động sản, chỉ thị công ty bảo hiểm trái phiếu Trung Quốc thuộc sở hữu Chính phủ cấp bảo lãnh cho các nhà phát triển BĐS phát hành với tiêu chí và điều kiện cụ thể. 

Với sự can thiệp của cơ quan quản lý, sự chung tay của trái chủ/ nhà đầu tư, các định chế trung gian và chính tổ chức phát hành thì phần lớn các trường hợp vỡ nợ trái phiếu tại Trung Quốc đã được tự giải quyết bởi các thành viên thị trường mà không qua thủ tục tòa án hoặc sự can thiệp của cơ quan quản lý. Tỷ lệ này chiếm tới 76% số trái phiếu vỡ nợ và điểm tích cực mà các nhà đầu tư Việt Nam có thể tham khảo là trong đó có tới 56% số trái phiếu có vấn đề này được gia hạn tiếp mà tổ chức phát hành không phải thanh toán. Việc gia hạn trái phiếu với một tỷ lệ thanh toán gốc nhất định chỉ chiếm 16%. 

Chart, pie chart

Description automatically generated

Việc gia hạn này thực tế cũng là hoạt động tái cấp vốn hoặc tái cấu trúc nợ mà hiện các ngân hàng Việt Nam đã và đang thực hiện, nhất là trong giai đoạn dịch bệnh COVID-19. 

Theo ông Nguyễn Quang Thuân, Tổng Giám đốc FiinRatings: “Trái phiếu Doanh nghiệp hiện nay là một vấn đề nhưng rủi ro đối với hệ thống tài chính tín dụng của Việt Nam là chưa ở mức cao. Không may NĐT đang sở hữu các trái phiếu mà DN không thể trả lãi và/ hoặc gốc thì việc chấp nhận "ngồi lại" đàm phán và dàn xếp với doanh nghiệp và các tổ chức trung gian sẽ là giải pháp tốt cho các bên.” 

Nếu như thị trường TPDN hiện nay cần có được sự chia sẻ và đồng hành tiếp tục của trái chủ/ nhà đầu tư và cũng là trách nhiệm khi đi đầu tư vào một tài sản có rủi ro cao; sự chủ động của doanh nghiệp là tổ chức phát hành trong việc thực hiện nghĩa vụ nợ và minh bạch thông tin; sự chủ động tham gia của các định chế tài chính trung gian, và một sự can thiệp “vừa đủ” với các biện pháp cụ thể và rõ ràng hơn thì thì vấn đề lùm xùm của TPDN hiện nay sẽ được giải quyết hoặc ít nhất là giảm những tác động dây chuyền và làm cho tất cả các bên đều mất mát thay vì hướng đến một giải pháp hài hòa cho tất cả các bên. 

Thực tế trên thị trường cũng có nhiều trái phiếu có chất lượng tốt và rủi ro thấp nên vì lý do "trào lưu" và lo sợ vì yếu tố tâm lý mà NĐT xếp hàng thực hiện "bond-run" thì dù có doanh nghiệp có rất khoẻ và trái phiếu tốt thì tự dưng có thể cũng thành "xấu", hoặc vỡ nợ vì bị trái chủ rút trước hạn chứ không phải vì kinh doanh của họ kém đi hoặc dòng tiền yếu. 

Và khi doanh nghiệp rơi vào tình trạng vỡ nợ toàn bộ hoặc phá sản thì NĐT trái phiếu sẽ không có thứ tự ưu tiên thanh toán cao. Sau khi trả thuế, trả nợ lương, trả nợ ngân hàng, trả nợ ưu tiên khác... thì đến lượt trái chủ có lẽ cũng chỉ còn cái "cọng rơm". 

Nguyễn Quang Thuân – TGĐ FiinRatings 

FiinGroup

Nguồn: